Tôi xin hỏi: Theo Khoản 3 Điều 59 Luật kế toán 2015 thì các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán không được góp vốn thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán khác. Theo Luật doanh nghiệp 2014 thì góp vốn thành lập có nghĩa là góp vốn ban đầu khi doanh nghiệp mới được thành lập. Vậy có tôi có các băn khoăn như sau: Một là: Đối trường hợp các Công ty đã được thành lập từ trước khi Luật kế toán 2015 được ban hành. Trong cơ cấu vốn của Công ty kinh doanh dịch vụ kế toán đã có phần vốn góp của các Công ty kinh doanh dịch vụ kế toán khác thì nay có buộc phải thoái vốn không? VD: Công ty kế toán A được thành lập từ năm 2009, trong cơ cấu vốn của Công ty A có 50% vốn góp của Công ty kế toán B. Nay Công ty B có buộc phải rút vốn ra khỏi Công ty A không? Có ý kiến cho rằng Công ty A đã được thành lập trước khi Luật kế toán 2015 có hiệu lực nên họ không nhất thiết phải rút vốn. Hai là: Công ty kinh doanh dịch vụ kế toán mua lại phần vốn góp của một thành viên khác trong Công ty kinh doanh dịch vụ kế toán khác thì có được không? (tức là họ không tham gia góp vốn để thành lập mà chỉ mua lại từ cá nhân, tổ chức khác). VD: Công ty A là Công ty TNHH kế toán được thành lập bởi các cá nhân góp vốn. Công ty kế toán B không tham gia góp vốn thành lập Công ty A nhưng sau khi Công ty A được thành lập thì Công ty B mua lại một phần vốn góp của một thành viên góp vốn khác để trở thành thành viên góp vốn của Công ty A có được không? Họ cho rằng luật chỉ cấm góp vốn để thành lập doanh nghiệp, còn họ là mua lại phần vốn góp đã có sẵn nên không vi phạm? Ba là: Theo quy định của Luật kiểm toán độc lập thì Công ty kiểm toán cũng có quyền kinh doanh dịch vụ kế toán. Do vậy cũng không được quyền tham gia góp vốn thành lập công ty kinh doanh dịch vụ kế toán. Nhưng nếu Công ty kiểm toán cam kết không kinh doanh dịch vụ kế toán, bỏ ngành nghề dịch vụ kế toán khỏi danh mục ngành nghề đăng ký kinh doanh thì họ có được góp vốn thành lập Công ty kế toán không? Rất mong nhận được phản hồi sớm từ quý bộ cho từng câu hỏi!
TRẢ LỜI THẮC MẮC CỦA CÔNG DÂN
Tại Khoản 1 Điều 24 Nghị định 174/2016/NĐ-CP quy định: “Doanh nghiệp kiểm toán có đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán theo quy định của pháp luật về kiểm toán độc lập thì được kinh doanh dịch vụ kế toán. Khi không còn đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán theo quy định của pháp luật về kiểm toán độc lập thì doanh nghiệp kiểm toán không được kinh doanh dịch vụ kế toán”.
Tại Khoản 3 Điều 59 Luật kế toán 2015 quy định: “Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán không được góp vốn để thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán khác, trừ trường hợp góp vốn với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài để thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán tại Việt Nam”.
Điều 26 Nghị định 174/2016/NĐ-CP quy định: “Thành viên là tổ chức được góp tối đa 35% vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ kế toán hai thành viên trở lên. Trường hợp có nhiều tổ chức góp vốn thì tổng tỷ lệ vốn góp của các tổ chức tối đa bằng 35% vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ kế toán hai thành viên trở lên”.
Căn cứ các quy định nêu trên, doanh nghiệp kiểm toán đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán thì được kinh doanh dịch vụ kế toán mà không yêu cầu phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán. Doanh nghiệp kiểm toán có quyền tự quyết định việc có kinh doanh dịch vụ kế toán hay không.
Trường hợp doanh nghiệp kiểm toán không kinh doanh dịch vụ kế toán thì không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 59 Luật kế toán 2015 và có thể góp vốn vào doanh nghiệp dịch vụ kế toán.
Trường hợp doanh nghiệp kiểm toán có cung cấp dịch vụ kế toán thì sẽ không được góp vốn để thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán khác, trừ trường hợp góp vốn với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài để thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán tại Việt Nam.